Bạn đang xem bài viết Chẩn Đoán Và Điều Trị Thủy Đậu Trên Phụ Nữ Mang Thai được cập nhật mới nhất trên website Vietuk.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Chẩn đoán và điều trị thủy đậu trên phụ nữ mang thai
Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp và qua tiếp xúc dịch tiết do Varicella Zoster Virus (VZV), thuộc họ Herpes virus gây nên.
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ THỦY ĐẬU
TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI
(Nguồn: Hướng dẫn điều trị 2016 – Bệnh Viện Hùng Vương)
GIỚI THIỆU
Định nghĩa
Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp và qua tiếp xúc dịch tiết do Varicella Zoster Virus (VZV), thuộc họ Herpes virus gây nên.
Bệnh thủy đậu là bệnh thường gặp và rất phổ biến ở Việt Nam
Bệnh thủy đậu rất dễ lây lan thành dịch, vì vậy cần có biện pháp phòng ngừa kịp thời.
Tác nhân gây bệnh là Virus Varicella Zoster. Trên lâm sàng virus gây nên bệnh thủy đậu (tiên phát) và zona (thứ phát). Người là ổ chứa bệnh duy nhất Lây trực tiếp qua đường hô hấp (các giọt nước bọt), và khi tiếp xúc trực tiếp với các tổn thương da và niêm mạc. Thời gian lây nhiễm khoảng 1 tuần (từ 1-2 ngày trước khi nổi mụn nước đến khi các mụn nước đóng vảy). Khả năng lây nhiễm cao, sau khi mắc bệnh có miễn dịch bền vững.
Lâm sàng
Thời gian ủ bệnh: Thay đổi từ 10 – 21 ngày, trung bình 15 ngày không triệu chứng.
Thời gian khởi phát: Bệnh nhân có thể sốt nhẹ, mệt mỏi, đau đầu, đôi khi có đau bụng nhẹ. Có thể xuất hiện những nốt hồng ban, kích thước vài mm nổi trên nền da bình thường. Thời kỳ này khoảng 24 giờ. Ở thiếu niên và người lớn triệu chứng thường nặng hơn.Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thường sốt cao hơn và thời gian khởi phát dài hơn.
Thời kỳ toàn phát: Trên da mặt, đầu, niêm mạc, cổ, lưng nổi những nốt đậu hình tròn hoặc hình giọt nước trên viền da màu hồng. Nốt đậu thường có đường kính 3-10 mm, lúc đầu chứa một chất dịch trong, sau khoảng 24 giờ thì hóa đục. Chúng mọc nhiều đợt trên một vùng da nên ta có thể thấy chúng ở nhiều lứa tuổi khác nhau: dạng phát ban, dạng nốt đậu trong, nốt đậu lục, dạng đóng mày. Các nốt đậu xuất hiện liên tục trong 5 ngày đầu tiên; chi dưới là nơi cuối cùng có các nút đậu.
Nốt đậu có thể mọc ở niêm mạc miệng, đường hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu, âm đạo, gây ra các triệu chứng nuốt đau, khó thở, tiểu rát… Bệnh nhân thường bị ngứa nhẹ, có thể sốt nhẹ hoặc không sốt. Số lượng nốt đậu ngày càng nhiều bệnh càng tăng.
Công thức máu: bạch cầu bình thường hoặc tăng nhẹ.
Huyết thanh chẩn đoán: Có thể phát hiện kháng thể kháng virus thủy đậu.
Ảnh hưởng trên thai phụ:
Bội nhiễm:
Thường gặp nhiễm trùng da do liên cầu và tụ cầu vàng. Biến chứng xảy ra do nốt đậu bị vỡ hoặc da bị trầy xước do bệnh nhân gãi gây viêm mủ da, chốc lỡ thậm chí gây viêm cầu thận cấp… Nếu không chữa trị kịp thời, tổn thương sẽ ăn sâu, lan rộng, để lại sẹo rỗ gây mất thẩm mỹ, nặng hơn còn dẫn đến viêm mô tế bào, nhiễm khuẩn huyết.
Chiểm 5% – 10% thai phụ nhiễm thủy đậu bị viêm phổi. Yếu tố nguy cơ viêm phổi ở thai phụ là hút thuốc lá và trên 100 nốt thủy đậu. Hầu hết xảy ra khoảng từ ngày thứ 4. Bệnh nhân sốt cao, khó thở, đau ngực, ho ra máu. X-quang có hình ảnh tẩm nhuộm dạng nốt và viêm phổi mô kẽ. Đây là biến chứng nguy hiểm, có thể dẫn đến tử vong cho thai phụ bị nhiễm thủy đậu vào tam cá nguyệt thứ 3.
Hội chứng Guillain-Barré
Viêm não – màng não: thường gặp ở người lớn, tỉ lệ tử vong ở biến chứng này khoảng 5-25%. Triệu chứng thường gặp là bệnh nhân đột ngột tăng lên, nhức đầu, li bì, nhiều khi co giật và liệt. Khám có hội chứng màng não. Nước não tủy trong, có tăng bạch cầu lympho, albumin tăng nhẹ.
Đặc biệt, sau khi bệnh nhân đã khỏi bệnh, siêu vi thủy đậu vẫn còn tồn tại trong các hạch thần kinh dưới dạng bất hoạt động (ngủ đông). Nhiều năm sau đó, có thể là 10, 20 hay 30 năm sau, khi có điều kiện thuận tiện như sức đề kháng cơ thể kém hay có yếu tố gì khác, thì siêu vi này sẽ tái hoạt động trở lại và gây ra sang thương của bệnh Zona.
Các biến chứng thần kinh khác có thể gặp là áp-xe não hoặc tủy sống.
Mẹ mắc thủy đậu trong tam cá nguyệt đầu không tăng nguy cơ sẩy thai.
Mẹ mắc thủy đậu khi mang thai dưới 20 tuần sinh con ra có khoảng 2% bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh (FVS Fetal varicella syndrom) như sẹo da, nhẹ cân, teo cơ, chậm tăng trưởng, bất thường ở mắt (mắt nhỏ bất thường, đục thủy tinh thể, tổn thương võng mạc), thiểu sản chi, bất thường hệ thần kinh (co giật, chậm phát triển trí tuệ, đầu nhỏ, não úng thủy, teo vỏ não…)
Mẹ mắc thủy đậu trước khi sinh trên 1 tuần diễn biến lành tính, khi sinh trẻ có kháng thể nên không nguy hiểm lắm.
Mẹ mắc thủy đậu từ 5 ngày đến 2 ngày sau khi sinh, trẻ sinh ra dễ mắc bệnh thủy đậu chu sinh và tỉ lệ tử vong cao khoảng 30%.
Dựa vào các đặc điểm lâm sàng và kết quả CLS. Hoặc có thể thấy các triệu chứng sau:
Bệnh khởi phát đột ngột.
Triệu chứng toàn thân nhẹ.
Ban mọc không theo thứ tự, mọc thành nhiều đợt cách nhau 3-4 ngày, ban ở chân tóc bao giờ cũng có.
Trên cùng một vùng da có nhiều tuổi ban khác nhau.
Khi ban lặn không để lại sẹo. Trường hợp nhiễm khuẩn mới để lại sẹo.
Bệnh thủy đậu cần chẩn đoán phân biệt với các loại bệnh sau:
Zona:
Cũng do VZV gây ra. Thường gặp ở người lớn tuổi và những người có tình trạng suy giảm miễn dịch: nhiễm HIV, bệnh Hodgkin, Lymphoma, đang điều trị bằng các thuốc ức chế MD…. Lâm sàng: zona ngực, zona mắt, sau tai, đầu… Ở ngực: thường gặp nhất các nốt phòng chỉ xuất hiện một bên dọc theo các dây thần kinh liên sườn. Đầu tiên xuất hiện các nốt nhỏ, màu hồng. Sau đó chúng trở nên tròn và to hơn nằm thành từng nhóm. Dịch đục sau 5 ngày và lặn sau 10 ngày, để lại sẹo nhỏ màu hồng nhạt. Zona ngực gây đau đớn cho bệnh nhân. Vùng da tại chỗ thường giảm cảm giác. Tiến triển: 2-3 tuần. Ở mắt: thường gặp ở người già, tổn thương một trong ba nhánh của dây thần kinh thị giác. Có thể viêm giác mạc kèm liệt vận nhãn. Biến chứng: đau kéo dài sau zona.
Nhiễm trùng do HSV thường gặp trên những vùng da có sẵn bệnh như chàm, viêm da dị ứng. Bệnh nhân thường không sốt, số lượng và kích thước nốt đậu nhỏ hơn. Chẩn đoán xác định dựa vào phân lập virus.
Khi phơi nhiễm
Đối với những thai phụ có phơi nhiễm với bệnh mà những thai phụ này chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chủng ngừa, nên dùng Varicella – zoster immune globulin (VZIG) càng sớm càng tốt. VZIG có hiệu quả trong vòng 10 ngày sau tiếp xúc bệnh nhân nhiễm thủy đậu.
Không dùng VZIG khi đã có triệu chứng: sốt, bóng nước.
Những thai phụ có tiền sử tiếp xúc thủy đậu nên được khám thai như một trường hợp nhiễm 8-28 ngày nếu chích VZIG hay trong vòng 8-21 ngày nếu không chích VZIG
Trước 20 tuần
Thai phụ cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa, nếu sốt có thể dùng thuốc hạ sốt paracetamol. Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm.
Trước khi khám thai nên đặt lịch trước và thông báo với bác sĩ lâm sàng về tình trạng bệnh thủy đậu của bản thân để được khám cách ly.
Việc sử dụng Acyclovir đường uống nên được xem xét cân nhắc.
Dùng Acyclovir đường tĩnh mạch đối với tất cả câc thai phụ nếu thủy đậu có biến chứng nặng như viêm phổi, viêm não.
Nên siêu âm hình thái cẩn thận ở thai phụ 16-20 tuần hay 5 tuần sau nhiễm.
Thai phụ nhiễm thủy đậu hay có sự chuyển đổi huyết thanh trong 28 tuần đầu, nguy cơ em bé có Hội chứng thủy đậu bẩm sinh thấp dưới 1-2%.
Trong vòng 24 giờ đầu sau nổi mụn nước, thai phụ nên dùng Acylovir đường uống càng sớm càng tốt.
Trong vòng 4 tuần cuối, nếu bà mẹ nhiễm thủy đậu, nguy cơ em bé sanh ra nhiễm thủy đậu toàn thân rất cao. Cho nên nếu có kể hoạch sanh nên tránh 7 ngày đầu tiên sau sau khi khởi phát bệnh.
Thai phụ khi sanh sẽ được tuân thủ cách ly theo phát đồ của CDC.
Sau sanh, em bé nên được bác sĩ sơ sinh đánh giá.
Bà mẹ có thể cho con bú nếu đủ sức khỏe.
Phòng bệnh không đặc hiệu
Phát hiện bệnh sớm để cách ly, tránh tiếp xúc với bệnh nhân.
Tiêm globulin miễn dịch:
Mục đích: phòng ngừa thủy đậu ở những người bị suy giảm miễn dịch khi tiếp xúc với người mắc bệnh thủy đậu.
Liều lượng : 0,3ml/kg, tiêm bắp một lần.
Liều lượng có thể dao động từ 2-10ml .
Vaccine chống thủy đậu (vaccine sống giảm độc lực) có hiệu quả bảo vệ cao và lâu dài, giúp cơ thể tạo kháng thể chống lại virus thủy đậu.
Tất cả trẻ em từ 12-18 tháng tuổi được tiêm một lần.
Trẻ em trên 19 tháng tuổi đến 13 tuổi chưa từng bị thủy đậu lần nào cũng tiêm một lần.
Trẻ em trên 13 tuổi và người lớn chưa từng bị thủy đậu lần nào thì nên tiêm 2 lần, nhắc lại cách nhau từ 4-8 tuần.
Tất cả các phụ nữ nên được chích ngừa thủy đậu trước khi mang thai.
Nếu trong thời gian chích ngừa, phát hiện có thai, đây không phải là chỉ định để chấm thai kỳ.
Các cơ sở y tế lớn nên đảm bảo có phòng cách ly cho các trường hợp nhiễm thủy đậu.
Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp và qua tiếp xúc dịch tiết do Varicella Zoster Virus (VZV), thuộc họ Herpes virus gây nên.Tác nhân gây bệnh là Virus Varicella Zoster.Trên lâm sàng virus gây nên bệnh thủy đậu (tiên phát) và zona (thứ phát).Người là ổ chứa bệnh duy nhấtLây trực tiếp qua đường hô hấp (các giọt nước bọt), và khi tiếp xúc trực tiếp với các tổn thương da và niêm mạc. Thời gian lây nhiễm khoảng 1 tuần (từ 1-2 ngày trước khi nổi mụn nước đến khi các mụn nước đóng vảy). Khả năng lây nhiễm cao, sau khi mắc bệnh có miễn dịch bền vững.Nốt đậu có thể mọc ở niêm mạc miệng, đường hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu, âm đạo, gây ra các triệu chứng nuốt đau, khó thở, tiểu rát…Bệnh nhân thường bị ngứa nhẹ, có thể sốt nhẹ hoặc không sốt. Số lượng nốt đậu ngày càng nhiều bệnh càng tăng.Thường gặp nhiễm trùng da do liên cầu và tụ cầu vàng. Biến chứng xảy ra do nốt đậu bị vỡ hoặc da bị trầy xước do bệnh nhân gãi gây viêm mủ da, chốc lỡ thậm chí gây viêm cầu thận cấp… Nếu không chữa trị kịp thời, tổn thương sẽ ăn sâu, lan rộng, để lại sẹo rỗ gây mất thẩm mỹ, nặng hơn còn dẫn đến viêm mô tế bào, nhiễm khuẩn huyết.Chiểm 5% – 10% thai phụ nhiễm thủy đậu bị viêm phổi. Yếu tố nguy cơ viêm phổi ở thai phụ là hút thuốc lá và trên 100 nốt thủy đậu. Hầu hết xảy ra khoảng từ ngày thứ 4. Bệnh nhân sốt cao, khó thở, đau ngực, ho ra máu. X-quang có hình ảnh tẩm nhuộm dạng nốt và viêm phổi mô kẽ. Đây là biến chứng nguy hiểm, có thể dẫn đến tử vong cho thai phụ bị nhiễm thủy đậu vào tam cá nguyệt thứ 3.Dựa vào các đặc điểm lâm sàng và kết quả CLS.Hoặc có thể thấy các triệu chứng sau:Bệnh thủy đậu cần chẩn đoán phân biệt với các loại bệnh sau:Cũng do VZV gây ra. Thường gặp ở người lớn tuổi và những người có tình trạng suy giảm miễn dịch: nhiễm HIV, bệnh Hodgkin, Lymphoma, đang điều trị bằng các thuốc ức chế MD….Lâm sàng: zona ngực, zona mắt, sau tai, đầu…Ở ngực: thường gặp nhất các nốt phòng chỉ xuất hiện một bên dọc theo các dây thần kinh liên sườn. Đầu tiên xuất hiện các nốt nhỏ, màu hồng. Sau đó chúng trở nên tròn và to hơn nằm thành từng nhóm. Dịch đục sau 5 ngày và lặn sau 10 ngày, để lại sẹo nhỏ màu hồng nhạt.Zona ngực gây đau đớn cho bệnh nhân. Vùng da tại chỗ thường giảm cảm giác. Tiến triển: 2-3 tuần.Ở mắt: thường gặp ở người già, tổn thương một trong ba nhánh của dây thần kinh thị giác. Có thể viêm giác mạc kèm liệt vận nhãn.Biến chứng: đau kéo dài sau zona.Nhiễm trùng do HSV thường gặp trên những vùng da có sẵn bệnh như chàm, viêm da dị ứng. Bệnh nhân thường không sốt, số lượng và kích thước nốt đậu nhỏ hơn. Chẩn đoán xác định dựa vào phân lập virus.
Hội Chứng Kháng Thể Kháng Phospholipid: Nguyên Nhân, Triệu Chứng, Chẩn Đoán Và Điều Trị
Tổng quan Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Hội chứng kháng phospholipid ( Antiphospholipid syndrome) xảy ra khi hệ thống miễn dịch tạo nhầm các kháng thể khiến máu có nhiều khả năng đông máu. Điều này có thể gây ra cục máu đông nguy hiểm trong động mạch hoặc tĩnh mạch ở chân, thận, phổi và não.
Kháng phospholipid thai kì phát hiện ở phụ nữ mang thai có thể dẫn đến sẩy thai liên tiếp . Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây đột quỵ phổ biến nhất ở người trẻ tuổi. Người ta ước tính rằng cứ 5 người thì có 1 người bị đột quỵ trước 40 tuổi có thể bị APS.
Hội chứng kháng phospholipid bệnh học ảnh hưởng đến tất cả các nhóm tuổi nhưng phổ biến nhất ở độ tuổi từ 20 đến 50. Nó được chẩn đoán lần đầu tiên ở những người bị lupus (lupus ban đỏ hệ thống) nhưng sau đó người ta đã phát hiện ra rằng APS có thể tự xảy ra (đây được gọi là APS chính) .Hiện nay chưa có cách điều trị hội chứng antiphospholipid chỉ có thể dùng thuốc có thể làm giảm nguy cơ đông máu.
Hậu quả hội chứng antiphospholipid (APS) là đông máu (huyết khối) và các vấn đề mang thai, đặc biệt là sẩy thai tái phát. Điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong thai kỳ nhưng phổ biến nhất là từ 3 đến 6 tháng. APS cũng có thể gây ra các vấn đề mang thai khác, chẳng hạn như huyết áp cao (tiền sản giật), trẻ nhỏ và sinh non. APS hiện được công nhận là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất có thể điều trị được của sẩy thai tái phát.
Các vấn đề về tim – Các van tim có thể dày lên và không hoạt động, hoặc các động mạch của bạn có thể bị thu hẹp vì các bức tường của chúng trở nên dày hơn, dẫn đến đau thắt ngực.
Các vấn đề về thận – APS có thể gây hẹp các mạch máu, dẫn đến huyết áp cao.
Vô sinh – Xét nghiệm tìm kháng thể kháng phospholipid (aPL) đang trở thành thói quen tại các phòng khám vô sinh.
Các vấn đề về da – Một số người bị nổi mẩn đỏ, thường thấy ở đầu gối hoặc cánh tay và cổ tay, với một mô hình ren (được gọi là reto reticularis).
Số lượng tiểu cầu thấp – Một số người có APS có mức tiểu cầu rất thấp – thường không có triệu chứng, mặc dù những người có số lượng rất thấp có thể dễ bị bầm tím hoặc bị chảy máu lạ hoặc quá nhiều.
Nguyên nhân Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Hội chứng antiphospholipid xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công nhầm chính cơ thể bạn tạo ra các kháng thể khiến máu bị đông lại. Các kháng thể thường bảo vệ cơ thể chống lại những kẻ xâm lược, chẳng hạn như virus và vi khuẩn.
Hội chứng antiphospholipid có thể được gây ra bởi một tình trạng tiềm ẩn, chẳng hạn như rối loạn tự miễn dịch.
Một số loại thuốc.
Không rõ nguyên nhân.
Triệu chứng Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng antiphospholipid có thể bao gồm:
Cục máu đông ở chân dẫn đến biểu hiện đau, sưng và đỏ. Những cục máu đông này có thể di chuyển đến phổi gây tắc mạch phổi.
Sảy thai nhiều lần hoặc thai chết lưu.
Các biến chứng khác của thai kỳ bao gồm huyết áp cao nguy hiểm (tiền sản giật) và sinh non.
Đột quỵ có thể xảy ra ở một người trẻ tuổi mắc hội chứng antiphospholipid nhưng không có yếu tố nguy cơ nào được biết đến đối với các bệnh tim mạch.
Tấn công thiếu máu não thoáng qua (TIA). Tương tự như đột quỵ, TIA thường chỉ tồn tại trong vài phút và không gây ra thiệt hại vĩnh viễn.
Phát ban. Một số người phát triển phát ban đỏ.
Các dấu hiệu và triệu chứng ít phổ biến hơn bao gồm:
Triệu chứng thần kinh: nhức đầu mãn tính, bao gồm đau nửa đầu; mất trí nhớ và co giật là có thể khi một cục máu đông chặn lưu lượng máu đến các bộ phận của não của bạn.
Bệnh tim mạch: hội chứng antiphospholipid có thể làm hỏng van tim.
Sự chảy máu: một số người bị giảm các tế bào máu cần thiết cho quá trình đông máu. Điều này có thể gây ra các đợt chảy máu, đặc biệt là từ mũi và nướu của bạn, xuất huyết dưới da.
Tùy thuộc vào cơ quan nào bị ảnh hưởng bởi cục máu đông và mức độ tắc nghẽn lưu lượng máu đến cơ quan đó, hội chứng antiphospholipid không được điều trị có thể dẫn đến tổn thương cơ quan vĩnh viễn hoặc tử vong. Các biến chứng bao gồm:
Suy thận: điều này có thể dẫn đến giảm lưu lượng máu đến thận của bạn.
Đột quỵ dẫn đến giảm lưu lượng máu đến một phần não của bạn có thể gây ra đột quỵ, có thể dẫn đến tổn thương thần kinh vĩnh viễn, chẳng hạn như tê liệt một phần và mất khả năng nói.
Vấn đề về tim mạch: một cục máu đông ở chân có thể làm hỏng các van trong tĩnh mạch, khiến máu chảy về tim. Điều này có thể dẫn đến sưng mãn tính và đổi màu ở chân dưới của. Một biến chứng khác có thể là tổn thương tim.
Vấn đề về phổi: tắc mạch phổi.
Biến chứng thai kỳ. Chúng có thể bao gồm sảy thai, thai chết lưu, sinh non, chậm phát triển của thai nhi và huyết áp cao nguy hiểm khi mang thai (tiền sản giật).
Đối tượng nguy cơ Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Các yếu tố nguy cơ của hội chứng antiphospholipid bao gồm:
Giới tính: tình trạng này phổ biến hơn nhiều ở phụ nữ so với nam giới.
Rối loạn hệ thống miễn dịch. Có một tình trạng tự miễn dịch khác, chẳng hạn như hội chứng lupus hoặc Sjogren, làm tăng nguy cơ mắc hội chứng antiphospholipid.
Nhiễm trùng: tình trạng này phổ biến hơn ở những người bị nhiễm trùng nhất định, chẳng hạn như giang mai, HIV / AIDS, viêm gan C hoặc bệnh Lyme.
Thuốc: một số loại thuốc đã được liên kết với hội chứng antiphospholipid. Chúng bao gồm hydralazine cho huyết áp cao, thuốc điều hòa nhịp tim quinidine, thuốc chống động kinh phenytoin (Dilantin) và amoxicillin kháng sinh.
Tiền sử gia đình: trong gia đình có người mắc APS.
Mang thai.
Bất động trong một thời gian, chẳng hạn như nằm trên giường nghỉ ngơi hoặc ngồi trong một chuyến bay dài.
Có phẫu thuật.
Hút thuốc lá.
Uống thuốc tránh thai hoặc liệu pháp estrogen cho thời kỳ mãn kinh.
Có mức cholesterol và chất béo trung tính cao.
Phòng ngừa Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Hiện nay chưa có biện pháp nào phòng được hội chứng kháng phospholipid.
Các biện pháp chẩn đoán Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Hội chứng antiphospholipid (APS) chỉ có thể được chẩn đoán nếu:
Có ba xét nghiệm máu chính được sử dụng để chẩn đoán APS. Đó là:
Xét nghiệm anticardiolipin.
Xét nghiệm chống đông máu lupus.
Xét nghiệm chống beta-2-glycoprotein I.
Để xác nhận chẩn đoán hội chứng antiphospholipid, các kháng thể phải xuất hiện trong máu ít nhất hai lần, trong các xét nghiệm được tiến hành cách nhau 12 tuần trở lên.
Có thể xuất hiện kháng thể kháng phospholipid và không bao giờ phát triển bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào. Chẩn đoán hội chứng antiphospholipid chỉ được thực hiện khi các kháng thể này gây ra vấn đề sức khỏe.
Các biện pháp điều trị Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Hội chứng antiphospholipid (APS) không thể chữa khỏi nhưng tác dụng có thể được kiểm soát. Điều trị bằng thuốc chống đông máu (làm loãng máu) có thể giúp ngăn ngừa cả cục máu đông và sảy thai. Các loại thuốc thường được sử dụng là aspirin, warfarin và heparin.
Lựa chọn thuốc tùy từng trường hợp cụ thể khác nhau:
Aspirin: chẩn đoán APS nhưng không có tiền sử đông máu, bác sĩ có thể sẽ khuyên dùng aspirin liều thấp hàng ngày. Điều này không được đảm bảo để ngăn ngừa cục máu đông nhưng được biết là làm cho máu ít dính hơn.
Warfarin: có các yếu tố khác làm tăng nguy cơ bị cục máu đông, hoặc nếu bạn bị các triệu chứng APS điển hình như đau nửa đầu hoặc sống, bạn có thể khuyên bạn nên dùng warfarin thay vì aspirin. Ngoài ra dùng warfarin khi có tiền sử đông máu. Tác dụng phụ nghiêm trọng nhất của warfarin trong quá trình điều trị là chảy máu. Cần được theo dõi chặt chẽ, làm các xét nghiệm đông máu thường xuyên.
Điều trị mẹ bầu bị hội chứng antiphospholipid:
Khi mang thai, phương pháp điều trị thông thường là dùng aspirin liều thấp; tuy nhiên, thông thường, phụ nữ mang thai APS được tiêm heparin hàng ngày cũng như aspirin, đặc biệt là nếu sảy thai trước đó xảy ra vào giữa đến cuối thai kỳ hoặc nếu có các biến chứng thai kỳ khác như tiền sản giật.
Nếu đang dùng warfarin và bạn có thai, có lẽ bạn sẽ được đổi thành heparin. Điều này là do warfarin có khả năng gây hại cho em bé.
Khi bạn đang dùng thuốc làm loãng máu, bạn sẽ tăng nguy cơ chảy máu.
Điều trị hỗ trợ khác:
Luyện tập thể dục: tập thể dục thường xuyên sẽ giúp khỏe mạnh và giữ cho trái tim khỏe mạnh.
Chế độ ăn uống và dinh dưỡng: có ý kiến cho rằng việc tăng lượng axit béo thiết yếu trong chế độ ăn uống của bạn, đặc biệt là axit béo omega-3 có trong cá có dầu, có thể giúp giảm nguy cơ đông máu. Tuy nhiên, không có thử nghiệm lâm sàng để hỗ trợ ý tưởng này. Cũng như vậy, dầu cá chứa một lượng lớn vitamin A có thể gây hại trong thai kỳ, vì vậy chúng tôi không khuyến nghị điều này nếu bạn nghĩ đến việc có con. Ăn một chế độ ăn uống cân bằng, lành mạnh rất quan trọng đối với sức khỏe nói chung của bạn và có thể giúp ngăn ngừa bạn phát triển cục máu đông.
Ngừng hút thuốc: hút thuốc sẽ làm tăng nguy cơ đông máu.
Đừng uống quá nhiều rượu.
Không dùng thuốc tránh thai: thuốc tránh thai tăng nguy cơ đông máu.
Thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kì đặc biệt ở các đối tượng như tiểu đường, huyết áp cao hoặc cholesterol cao.
Nếu đang dùng thuốc như warfarin,nên cẩn thận tránh bị tai nạn vì vết bầm tím có thể tồi tệ hơn.
Nếu đang mang thai cần thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kì và làm các xét nghiệm theo dõi cần thiết.
Phụ Nữ Mắc Thalassemia: Những Điều Cần Biết Trước Khi Mang Thai
Bài viết được thực hiện bởi Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Yi Hyeon Gyu – Trưởng Đơn nguyên Huyết học và Trị liệu tế bào – Đơn nguyên Huyết học và Trị liệu tế bào – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.
Thalassemia (hay tan máu bẩm sinh) là một nhóm các bệnh di truyền làm giảm lượng hemoglobin bình thường trong hồng cầu. Một loại protein có tên là Hemoglobin được vận chuyển bởi các tế bào hồng cầu, đưa oxy tới tất cả các bộ phận của cơ thể. Việc giảm hemoglobin trong máu dẫn đến thiếu máu.
Có hai loại Thalassemia là Alpha Thalassaemia và Beta Thalassemia, tùy thuộc vào chuỗi protein của phân tử hemoglobin bị mất trong hồng cầu. Ngoài ra, bệnh này cũng được chia làm 3 nhóm tùy vào mức độ của nó là: thể nhẹ, thể vừa và thể nặng.
Phụ nữ bị Thalassemia máu có tỷ lệ bị vô sinh cao bởi thường phải truyền máu. Tuy nhiên, một số phụ nữ bị bệnh vẫn có thể có thai. Trong trường hợp người phụ nữ bị Thalassemia và muốn mang thai thì hãy cân nhắc một số vấn đề quan trọng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và bé.
1. Lưu ý ở bà mẹ mắc Thalassemia
Trong khi mang thai nên theo dõi chặt chẽ các rối loạn của mẹ và tình trạng của bé. Huyết sắc tố Hb nên được duy trì trên 10g/dL để cho phép thai nhi phát triển bình thường. Thải sắt không được khuyến khích; tuy nhiên, có thể hợp lý khi xem xét lại liệu pháp thải sắt bằng Desferrioxamine vào khoảng tháng thứ 6 thai kỳ khi lợi ích tiềm năng vượt xa nguy cơ thai nhi.
Phụ nữ mắc bệnh Thalassemia mà trước đây chưa từng được truyền máu hoặc chỉ được điều trị truyền máu tối thiểu, có nguy cơ bị thiếu máu trầm trọng trong khi mang thai. Vì mang thai làm tăng nguy cơ huyết khối gấp 3 – 4 lần và bệnh Thalassemia cũng là một tình trạng tăng đông, nên khuyến cáo là phải bảo đảm sự an toàn cho những phụ nữ có nguy cơ cao (như những người không thường xuyên được truyền máu, những người bị cắt lách trong khi mang thai và giai đoạn sau sinh).
Triệu chứng của bệnh Thalassemia có thể trở nên trầm trọng hơn nếu thai phụ bị căng thẳng của việc mang thai. Tim và gan của người phụ nữ dễ bị tổn thương nhất trong thời kỳ mang thai, đồng thời hệ thống nội tiết giúp tiết ra các hooc môn trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng. Mỗi hệ thống này phải được theo dõi chặt chẽ trước và trong suốt thai kỳ.
Trong khi mang thai, cơ thể của người mẹ cần sản xuất máu nhiều hơn để đáp ứng thêm nhu cầu của thai nhi. Đây là lý do phụ nữ bị bệnh Thalassemia khi mang thai rất dễ bị thiếu máu, đặt áp lực tạo máu nhiều hơn đến tim để có thể đẩy máu đến tất cả các mô của cơ thể. Phụ nữ bị Thalassemia cần phải kiểm tra chức năng tim trước khi mang thai. Trong thời kỳ mang thai, họ có thể cần truyền máu thường xuyên để giảm bớt căng thẳng lên tim.
Bệnh đái tháo đường type 1 cũng là một trong những bệnh mẹ bầu bị Thalassemia dễ mắc. Sự căng thẳng của việc mang thai có thể làm trầm trọng thêm tình trạng này. Bệnh tiểu đường cần được kiểm soát tốt trước và trong suốt thai kỳ.
Axit folic là một yêu cầu dinh dưỡng quan trọng trong những tuần đầu của thai kỳ bình thường nhưng đối với phụ nữ bị Thalassemia thì nhu cầu chất này càng cao hơn. Ngoài việc giúp ngăn ngừa các khiếm khuyết ống thần kinh ở trẻ đang phát triển, axit folic sẽ giúp làm giảm nguy cơ mắc một loại thiếu máu đặc biệt gọi là thiếu máu megaloblastic. Các chất dinh dưỡng và chất bổ sung có thể cần thiết theo quyết định của bác sĩ.
Bệnh tan máu bẩm sinh có ảnh hưởng đến quá trình sinh nở hay không? Tình trạng tan máu bẩm sinh có thể ảnh hưởng đến cách xương phát triển làm cho việc sinh nở thông qua ngả âm đạo trở nên khó khăn. Trường hợp mẹ có biến dạng khung chậu thì khó có thể sinh thường được.
Những đánh giá trước mang thai của phụ nữ mắc Thalassemia:
Người chồng/bạn trai: Tình trạng Thalassemia; Công thức máu; Tinh dịch đồ.
Khả năng sinh sản: Chu kỳ kinh nguyệt; Xét nghiệm nội tiết tố (bao gồm AMH); Siêu âm vùng xương chậu, tử cung.
Quá tải sắt: Điện di huyết thanh (Serum ferritin); Chụp MRI Tim; Chụp MRI gan.
Chức năng tim: Đánh giá chức năng tim mạch; Điện tâm đồ (cả khi nghỉ ngơi và tập thể dục); Siêu âm tim.
Chức năng gan: Xét nghiệm sinh hóa gan; Siêu âm gan và túi mật; Đánh giá vấn đề xơ gan.
Chức năng nội tiết: Xét nghiệm chức năng tuyến giáp; Xét nghiệm chuyển hóa Glucose; Mức độ vitamin D, HEXA.
Nhiễm: TORCH; HIV, HBV, HCV; Bệnh giang mai.
Thrombophilia: Tiền sử cá nhân/gia đình bị thrombophilia
2. Lưu ý ở con
Con đường di truyền của bệnh Thalassemia diễn ra những trường hợp như sau:
Chỉ có bố hoặc mẹ mang gen bệnh: 50% con sinh ra sẽ mang gen bệnh, 50% bình thường.
Bố và mẹ cùng mang gen bệnh: 25% con sinh ra bình thường, 50% con mang gen bệnh nhưng không biểu hiện và 25% con bị bệnh.
Bố hoặc mẹ bị mắc bệnh, người còn lại chỉ mang gen bệnh mà không biểu hiện: 100% con sinh ra mang gen bệnh, trong đó xác suất bệnh biểu hiện ra bên ngoài là 50%.
Cả hai bố mẹ cùng bị bệnh Thalassemia: 100% con sinh ra đều bị bệnh.
Chính vì vậy, trước khi mang bầu, cả hai vợ chồng nên chủ động đi xét nghiệm tầm soát bệnh và hỏi ý kiến chuyên gia để có sự lựa chọn hợp lý nhất.
Nếu vợ và chồng đã được chẩn đoán có đặc điểm tan máu bẩm sinh tiềm ẩn, bác sĩ sẽ chỉ định bạn thực hiện biện pháp xét nghiệm chẩn đoán để đánh giá xem liệu thai có bị di truyền chứng bệnh này hay không. Các hình thức kiểm tra xét nghiệm bao gồm:
Sinh thiết gai nhau (CVS): Lấy một mẫu nhỏ của nhau thai để xét nghiệm DNA vào khoảng từ tuần thứ 11 đến 14 của thai kỳ.
Chọc dò nước ối được thực hiện sau 15 tuần mang thai.
Lấy mẫu máu thai nhi thông qua dây rốn khi mẹ bầu mang thai từ 18 – 21 tuần.
Việc thai nhi bị ảnh hưởng bởi thiếu máu chuỗi alpha mức độ nặng nên sẽ có cơ hội sống sót rất thấp. Do đó, một số bố mẹ thường sẽ cân nhắc việc chấm dứt thai kỳ. Điều này là do em bé có thể không thể phát triển như các bé bình thường dù phải trải qua khá nhiều phương pháp điều trị.
Ảnh hưởng của người mẹ mắc bệnh tan máu bẩm sinh đối với thai nhi
Cho dù bạn bị bệnh tan máu bẩm sinh hay chỉ là người mang mầm bệnh, em bé sẽ có thể tránh khỏi tác động của căn bệnh này nếu mẹ bầu uống 5mg axit folic mỗi ngày trong suốt thai kỳ. Điều này là do bệnh có thể làm tăng nguy cơ thai nhi bị khiếm khuyết ống thần kinh, chẳng hạn như tật nứt đốt sống.
Việc uống axit folic đều đặn cũng giúp máu trở nên khỏe mạnh. Bệnh tan máu bẩm sinh có thể dẫn đến thiếu máu khi mang thai. Nếu bệnh ở mức độ nhẹ, bác sĩ sẽ thực hiện thêm một vài xét nghiệm để xem mẹ bầu có nên bổ sung sắt hay không.
Trẻ mắc bệnh Thalassemia khi sinh ra sẽ sớm phát triển các triệu chứng của bệnh như tím tái, nhức đầu, mệt mỏi, thở dốc, vàng da,… Những bé này có thể kén ăn hoặc nôn mửa sau khi ăn. Có thể điều trị bệnh Thalassemia bằng một số loại thuốc hoặc nếu thể nặng thì cần truyền máu thường xuyên.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đã triển khai chương trình tư vấn và chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai với các dịch vụ trong đó có Chương trình sàng lọc phát hiện người lành mang gen bệnh. Là một trong những đơn vị đầu ngành về khám, tư vấn và can thiệp hỗ trợ sinh sản, tầm soát bệnh Thalassemia cho các cặp vợ chồng chuẩn bị bước vào cuộc sống hôn nhân, hoặc những cặp vợ chồng đã kết hôn nhưng chưa biết mình có mang gen bệnh hay không.
Mặc dù tan máu bẩm sinh là bệnh được chẩn đoán và điều trị không quá phức tạp, nhưng đây là căn bệnh di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chi phí cho điều trị rất tốn kém, vì vậy để sinh ra em bé khỏe mạnh trong cuộc sống hiện đại, tầm soát gen bệnh trước khi kết hôn là vô cùng quan trọng.
Quý khách hàng có thể trực tiếp đến Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline TẠI ĐÂY để được hỗ trợ.
Mang Thai Bị Thủy Đậu Cần Thận Trọng Như Nào?
Mang thai bị thủy đậu cần thận trọng như nào?
Thủy đậu là một bệnh do nhiễm virut tên là Herpes zoster. Nếu bạn đã từng nhiễm thủy đậu, cơ thể sẽ sản xuất miễn dịch chống lại virut. Khi virut xâm nhập cơ thể lần nữa thì sẽ bị tiêu diệt. Nhưng nếu chưa từng bị thủy đậu, nhất là trong khi đang mang thai cần phải thận trọng hơn tránh những trường hợp xấu nhất ảnh hưởng đến thai nhi.
1. Nguy cơ nhiễm virut gây bệnh thủy đậu:
Bạn có thể nhiễm virut từ người đang mắc bệnh. Người nhiễm bệnh có thể truyền bệnh từ trước khi xuất hiện bóng nước 2 ngày cho đến khi các bóng nước này khô mài(đóng vảy). Như vậy, trường hợp có nguy cơ nhiễm khi: – Tiếp xúc gần với người bệnh – Đối diện với người mắc bệnh ít nhất 5 phút – Ở cùng phòng với người bệnh ít nhất 15 phút Từ khi bị nhiễm virut đến khi có biểu hiện, triệu chứng là khoảng 10 ngày đến 3 tuần, khoảng thời gian này chính là thời gian ủ bệnh.
2. Cần làm gì khi mang thai có tiếp xúc với người bị thủy đậu:
Nếu thai phụ từng bị thủy đậu rồi thì không cần phải lo lắng nhiều, không cần làm gì cả. Bởi kháng thể của bạn có thể bản vệ bạn cũng như bảo vệ em bé của bạn. Trong trường hợp nếu chưa bị hoặc không chắn chán, hoặc thấy nổi bóng nước nghi ngờ thủy đạu, bạn nên đi khám bác sĩ ngay để có thể biết rõ tình trạng của mình cũng như có được lời khuyên cần thiết từ bác sĩ.
Thận trọng khi mang thai bị thủy đậu
3. Khi mang thai bị thủy đậu sẽ bị ảnh hưởng gì?
Mặc dù tỉ lệ không nhiều nhưng vẫn có trường hợp thủy đậu gây những ảnh hưởng nghiêm trọng như viêm phổi, viêm gan… Nguy cơ này tăng lên ở nhóm những phụ nữ có sẵn bệnh lý ở phổi, hút thuốc, mang thai được 20 tuần tuổi. Ảnh hưởng của thủy đậu lên thai nhi tùy thuộc vào giai đoạn nhiễm bệnh của mẹ: - Giai đoạn thai dưới 28 tuần: Thai ít bị ảnh hưởng hơn so với các giai đoạn khác, dù có thể tổn thương thai nhi nhưng tỷ lệ không cao. Nếu ảnh hưởng, thai nhi có thể bị tổn thương ở mắt, tay chân, não… Trường hợp thai phụ mắc bệnh trong giai đoạn này, nếu cần, bác sĩ sẽ cho sử dụng thuốc và hướng dẫn cách theo dõi thai kỳ. Thai phụ cần thông báo cho bác sĩ khám thai nếu không theo dõi liên tục cùng với một bác sĩ để đánh giá thai ở giai đoạn sau - Giai đoạn thai từ 28-36 tuần: Thai nhi có thể nhiễm virut nhưng không biểu hiện triệu chứng. - Giai đoạn trên 36 tuần: Đây là giai đoạn ảnh hưởng nhiều nhất. Nếu thai phụ sinh con trong vòng 7 ngày xuất hiện bóng nước hoặc tuần đầu sau sinh, em bé có thể mắc thủy đậu nên sẽ được sử dụng thuốc dự phòng hay điều trị. - Thai phụ vẫn có thể cho con bú nếu mắc thủy đậu trong thai kỳ hay sau sinh, nhưng nếu bóng nước xuất hiện ngay đầu vú, bạn cần cho con bú bằng vú bên kia, bên bị bóng nước vắt sữa bỏ, chờ đến khi bóng nước khô, đóng vảy.
Phòng ngừa khi mang thai bị thủy đậu
4. Mang thai bị thủy đậu sinh em bé khi nào là hợp lý?
Thời điểm sinh tùy thuộc tình trạng của sản phụ và thai nhi. Tốt nhất nên chờ lui bệnh, bạn bình phục, lý tưởng nhất là sau 7 ngày từ khi nổi bóng nước. Trong trường hợp bạn không đủ sức khỏe, có biến chứng khi bị thủy đậu bác sĩ sẽ tư vấn thời điểm với bạn, có thể phải sớm hơn thời điểm dự đoán. Như vậy, vai trò của tiêm ngừa là khá quan trọng. Nếu đã tiêm chích thủy đậu bạn sẽ không phải lo lắng về bệnh này khi mang thai. Còn khi thai phụ bị nhiễm thủy đậu hãy đến thăm khám bác sĩ trong thời gian sớm nhất để tránh những ảnh hưởng xấu đến thai nhi.
Cập nhật thông tin chi tiết về Chẩn Đoán Và Điều Trị Thủy Đậu Trên Phụ Nữ Mang Thai trên website Vietuk.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!